Theo GS.TSKH Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư, dịch Covid-19 đã khiến chuỗi cung ứng thế giới đảo lộn và Việt Nam hoàn toàn có thể thay Trung Quốc trở thành công xưởng của thế giới.
3 lợi thế để Việt Nam chen chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu
Nhiều nhà phân tích trong nước và thế giới đều nhận định rằng, việc mới đây Mỹ mời Việt Nam cùng Hàn Quốc, New Zealand tham gia điện đàm với nhóm QUAD (gồm Mỹ, Nhật Bản, Úc, Ấn Độ) chính là để tiến tới một “Mạng lưới kinh tế thịnh vượng”, trong đó một trong những mục tiêu quan trọng là giảm sự lệ thuộc vào chuỗi cung ứng mà Trung Quốc đang nắm giữ. Ông đánh giá thế nào về cơ hội của Việt Nam trong làn sóng dịch chuyển này?
Cơ hội không phải bây giờ mới có. Từ những năm 2003 – 2004, thế giới đã xuất hiện khái niệm “Trung Quốc +1”. Các công ty từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản hay Hàn Quốc đã nhận thức rằng cần chuyển hướng đầu tư sang một nước khác, thay vì lệ thuộc vào Trung Quốc. Việc Samsung, LG của Hàn Quốc chuyển gần hết sang Việt Nam chính là động thái từ “Trung Quốc +1”.
Hiện tại, sự dịch chuyển lại càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Trong dịch bệnh, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy đã khiến trật tự thế giới bị đảo lộn. Ngay lập tức, chính phủ Mỹ đã hối thúc các doanh nghiệp rút khỏi Trung Quốc. Nhật Bản cũng tung ra gói hỗ trợ 2 tỷ USD để các doanh nghiệp rời Trung Quốc, chuyển đến nước khác.
Xu hướng dịch chuyển này mở toang cơ hội cho Việt Nam, đặc biệt với các ngành, lĩnh vực 4.0, sản xuất thiết bị công nghệ cao. Theo tôi được biết, Apple đã chuyển hướng sang Việt Nam và dự kiến sản xuất 1/3 tổng lượng tai nghe Airpod bán ra trên toàn thế giới ở nước ta. Microsoft cũng có động thái tương tự.
Theo ông, Việt Nam có lợi thế gì để kéo được chuỗi cung ứng toàn cầu về mình, khi có nhiều quốc gia khác cũng đang rất chờ đợi cơ hội này?
Theo tôi, Việt Nam đang có 3 lợi thế rất lớn để kéo các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng sang đầu tư.
Thứ nhất, Việt Nam đặc biệt thành công trong việc chống dịch, phản ứng chính sách của chúng ta rất tốt, cả thế giới coi Việt Nam là hình mẫu chống dịch. Điều này mang lại niềm tin cho các doanh nghiệp về môi trường đầu tư an toàn.
Thứ hai, sự chống chịu của doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam rất tốt. Trong khi toàn cầu đang ghi nhận tăng trưởng âm thì Việt Nam đạt con số tăng trưởng 3,8% từ đầu năm. Cả năm 2020, nền kinh tế toàn cầu khả năng tăng trưởng âm từ 3-4%, riêng Mỹ dự đoán Quý II sẽ -40%, Anh -30%. Trong khi đó, ngay cả dự báo bi quan nhất thì Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,7% trong năm 2020, và tăng 7% trong 2021, là mức tăng trưởng cao so với thế giới. Nếu để nói nước nào tăng trưởng kinh tế sớm nhất thì Việt Nam nằm trong nhóm đầu.
Thứ ba, cơ hội này càng thuận lợi khi Việt Nam ở rất gần Trung Quốc, do đó các doanh nghiệp chuyển dịch nhà máy rời Trung Quốc sang Việt Nam thuận lợi về mặt địa lý.
Chúng ta vẫn đang có phần chậm hơn so với các nước khi phản ứng trước cơ hội này. Việt Nam từng bỏ lỡ nhiều cơ hội trong quá khứ, nay chiến lược toàn cầu ở các nước đang thay đổi có lợi cho mình, chúng ta không thể nào ngồi chờ được.
Hỗ trợ những tập đoàn mạnh để làm chỗ dựa cho nền kinh tế
Vậy những việc cần làm ngay lúc này là gì để chúng ta không bỏ lỡ cơ hội vàng một lần nữa, thưa ông?
Để biến lợi thế thành kết quả, trước tiên Việt Nam phải thích nghi với sự thay đổi của thế giới bằng cách xem xét lại các quy định, đưa ra chính sách, cơ chế, cách làm để tận dụng cơ hội. Trong quá trình này, tôi nhấn mạnh ba vấn đề lớn. Đầu tiên là về đất xây dựng. Chúng ta có thuận lợi là có hơn 350 khu công nghiệp, 17 khu kinh tế với quỹ đất trống khoảng 45%. Đây là cơ hội tốt để tuyên bố với các tập đoàn lớn rằng chúng ta sẵn sàng dành đất trống, giá thuê đất hợp lý, ổn định, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc.
Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục nâng cao nguồn nhân lực chất lượng cao. Hiện chất lượng lao động Việt đã được cải thiện đáng kể so với quá khứ. Các doanh nghiệp lớn như Samsung, Intel, Viettel hay Vingroup có đội ngũ quản lý, kỹ sư trình độ cao đều là người Việt. Công nhân người Việt Nam tại Samsung được đánh giá có năng suất tương đương công nhân Hàn Quốc. Đó là những điều tích cực và chúng ta cần phát huy hơn nữa.
Thứ ba, chúng ta cần chuẩn bị tốt về hạ tầng điện, nước, giao thông,… Khi mọi thứ sẵn sàng, dòng vốn ngoại sẽ được hấp thụ sớm, tạo lực đẩy cho cả nền kinh tế.
Khi làn sóng các doanh nghiệp lớn từ Mỹ, châu Âu chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam, theo ông liệu có xảy ra tình trạng những doanh nghiệp này trở thành “cá mập” thâu tóm, kiểm soát các doanh nghiệp nội hay không?
Hãy nhìn câu chuyện này với cái nhìn tích cực. Tôi lấy ví dụ, việc tập đoàn SK Group của Hàn Quốc đầu tư 1 tỷ USD vào Vingroup có phải định thâu tóm không? Không, họ đầu tư vì thấy tiềm năng phát triển của doanh nghiệp Việt và muốn đầu tư để hưởng lợi từ sự phát triển của Vingroup. Ở những thương vụ như thế, tất cả đều hưởng lợi.
Thứ hai, thị trường chứng khoán Việt Nam đang rất hấp dẫn với các nhà đầu tư ngoại. Nhiều doanh nghiệp ngoại sẵn sàng đầu tư để tham gia vào hội đồng quản trị các doanh nghiệp trong nước. Điều này là tốt cho các doanh nghiệp nội.
Trong bối cảnh mới, những doanh nghiệp trong nước có quy mô, nội lực dồi dào và đã có thành công sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong xu hướng dịch chuyển mới này. Có thể nói là những điểm tựa của nền kinh tế, kéo các doanh nghiệp khác vươn lên mạnh mẽ hơn.
Theo ông, Nhà nước cần hỗ trợ gì để những “điểm tựa” này chuẩn bị đủ sức mạnh cạnh tranh khi những ông lớn từ Mỹ, Châu Âu đổ bộ đến?
Dưới vai trò Chủ tịch VAFIE, tôi có một đề nghị mà chưa thể làm được là hiện nay mới có luật hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng chưa có luật hỗ trợ, thúc đẩy các tập đoàn lớn mạnh, dù đây là câu chuyện “đại sự”.
Việt Nam có thể lấy Hàn Quốc làm hình mẫu. Kinh tế Hàn Quốc tiến rất nhanh, trở thành nước đứng thứ 11 thế giới, dẫn đầu về công nghệ, công nghiệp, đó là nhờ các điểm tựa như Samsung, SK, LG, Lotte,… Vai trò các tập đoàn lớn đối với nền kinh tế rất quan trọng, mặc dù số lượng ít nhưng đóng góp GDP, xuất nhập khẩu lại là chủ lực.
Chúng ta có rất nhiều doanh nghiệp có nội lực. Viettel bây giờ đã trở thành thế lực ngành viễn thông thế giới; Tập đoàn Dầu khí Việt Nam từ chỗ làm thuê cho nước ngoài, bây giờ đã làm chủ công nghệ. Hay như Vingroup từ “ông lớn” bất động sản, dịch vụ đã chuyển hướng mạnh mẽ sang công nghiệp, công nghệ và đạt được rất nhiều thành tựu. Thời cơ đã đến, họ đều có thể trở thành những điểm tựa trong tương lai nếu nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Nhà nước.
Xin cảm ơn ông!
Theo Tổ Quốc